Khoảng 10 năm trước, nhiều bệnh nhân ở Hải Phòng bị hiếm muộn, vô sinh… phải tìm đến các bệnh viện ở Hà Nội hoặc vào TP.HCM điều trị.
Bài toán này đã được giải đáp khi bệnh viện chuyên khoa Sản tuyến cuối TP Hải Phòng triển khai nhiều kỹ thuật mới trong khám, điều trị, hỗ trợ sinh sản cho bệnh nhân.
Giảm thiểu chuyển tuyến nhờ đổi mới kỹ thuật
Hải Phòng có 4 bệnh viện lớn gồm BV Hữu nghị Việt Tiệp, BV Kiến An và 2 bệnh viện chuyên khoa Nhi và sản là BV T.rẻ e.m Hải Phòng, BV Phụ sản Hải Phòng.
Với đặc thù là bệnh viện chuyên về sản phụ khoa tuyến cuối thành phố, mỗi năm lượng bệnh nhân tới khám tại BV Phụ sản Hải Phòng luôn chiếm số lượng lớn, khoảng 200.000 lượt, điều trị cho hàng chục ngàn bệnh nhân ngoại trú, bệnh nhân sinh và phẫu thuật sản phụ khoa… Quy mô giường bệnh theo đó cũng nâng lên 520 giường theo kế hoạch với 34 khoa phòng và 612 nhân lực.
Các bác sĩ BV Phụ sản Hải Phòng đang thực hiện kỹ thuật can thiệp mạch (nút mạch) điều trị khối u xơ tử cung cho bệnh nhân.
Theo báo cáo của Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng, trong suốt giai đoạn tự chủ, bệnh viện đã tập trung cả nhân lực và kinh phí cho các Khoa Hỗ trợ sinh sản, Quản lý thai nghén và Chẩn đoán trước sinh vì xác định đây là mũi nhọn của đơn vị. Không chỉ bệnh nhân tại địa phương, đông đảo bệnh nhân từ các tỉnh thành phía Bắc; thậm chí cả các tỉnh phía Nam và người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam cũng chọn BV Phụ sản Hải Phòng để điều trị.
Chị L.T.L, SN 1990 (huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng) từng bao lần tuyệt vọng với việc chữa hiếm muộn, kể lại: “Tôi từng hiếm muộn con sau 4 năm kết hôn và đã đi nhiều trung tâm hỗ trợ sinh sản trên Hà Nội làm thụ tinh ống nghiệm (IVF/ICSI) nhưng đều thất bại. Cũng thời gian này, tôi lại phát hiện u xơ tử cung nên vô cùng tuyệt vọng. May mắn, biết BV Phụ sản Hải Phòng đã triển khai kỹ thuật can thiệp mạch điều trị u xơ tử cung (UXTC) – một kỹ thuật mới mà không cần phẫu thuật can thiệp vào tử cung nên cơ hội làm mẹ vẫn còn, tôi đã đến gặp bác sĩ Vũ Văn Tâm – Giám đốc bệnh viện để được thăm khám, tư vấn, điều trị.
Sau khi trực tiếp khám, bác sĩ Tâm đã tư vấn, chỉ định điều trị khối UXTC của tôi bằng kỹ thuật can thiệp mạch (nút mạch) và thành công. Sau khi xử lý chữa thành công khối UXTC, tôi bắt đầu bước vào lộ trình làm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF/ICSI). Thật hạnh phúc, tôi đã có thai và sinh nở thành công. Kỹ thuật ngành y tôi không am hiểu nhưng thực sự nhờ những kỹ thuật hiện đại và trình độ của các thầy thuốc đã giúp và cứu cánh cho bao gia đình có được hạnh phúc trọn vẹn”.
Tương tự, nhiều trường hợp hiếm muộn như chị Ngọc T. (quận Hải An), Mỹ L. (Vĩnh Bảo) cũng nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm tại BV Phụ sản Hải Phòng đã tìm được hạnh phúc cho mình và gia đình khi đón những đứa con xinh xắn, mạnh khỏe sau hơn 10 năm gian nan điều trị hiếm muộn.
Ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu tự thân hỗ trợ sinh sản
Mới đây, tại cuộc thi Sáng tạo kỹ thuật Hải Phòng năm 2022-2023, đề tài “Nghiên cứu ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu tự thân trên các bệnh nhân làm thụ tinh trong ống nghiệm tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng” của PGS.TS.BS Vũ Văn Tâm – Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng đã vinh dự giành giải nhất.
Kỹ thuật ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu tự thân trên các bệnh nhân làm thụ tinh trong ống nghiệm đã cho tỉ lệ đậu thai cao hơn phương pháp thông thường khác. Ảnh: TL
Để thực hiện đề tài này, PGS.TS.BS Vũ Văn Tâm cùng cộng sự đã tiến hành nghiên cứu từ ngày 28/02/2020 đến ngày 02/8/2023 trên 304 bệnh nhân, người trẻ t.uổi nhất 20 t.uổi, người cao t.uổi nhất 48 t.uổi.
Kết quả có 211 bệnh nhân có niêm mạc tử cung đủ điều kiện được chuyển phôi, 93 người không đủ điều kiện phải hủy chu kỳ. Trong 211 bệnh nhân được chuyển phôi có 107 người có thai lâm sàng (50,71%). Không có thai 104 người (49,29%). Kết quả này cũng tương tự với các kết quả của các tác giả khác trên thế giới. Điều này một lần nữa khẳng định vai trò tái tạo, sửa chữa của huyết tương giàu tiểu cầu tự thân trên các đối tượng làm thụ tinh ống nghiệm nhưng thất bại làm tổ nhiều lần, hoặc thất bại với các phác đồ chuẩn bị niêm mạc tử cung đơn giản. Đây là 1 kỹ thuật cao, đòi hỏi sự phối hợp của nhiều khâu nhưng lại an toàn do sử dụng chế phẩm từ m.áu tự thân.
Theo bác sĩ Vũ Văn Tâm, phương pháp này sẽ giúp bệnh nhân có thể giảm được gánh nặng chi phí rất nhiều, cho tỉ lệ đậu thai cao hơn phương pháp thông thường khác. Đến nay, bệnh viện cũng đã hỗ trợ tối đa chi phí cho 107/211 bệnh nhân chữa vô sinh; giúp 107 bà mẹ có cơ hội được làm mẹ thành công.
Dịch vụ chăm sóc sau sinh được đ.ánh giá cao
Từng 3 lần sinh nở tại BV Phụ sản Hải Phòng, sản phụ Đỗ Thu Hằng, 38 t.uổi (Thủy Nguyên, Hải Phòng) không khỏi ngỡ ngàng trước dịch vụ chăm sóc sau sinh của Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng.
Chị Hằng phấn khởi chia sẻ: “Bốn năm trước khi sinh lần 2, bệnh viện chưa có dịch vụ chăm sóc sau sinh hiện đại như bây giờ nên trước khi đi sinh, tôi đã nghĩ tới phương án nhờ người nhà cắt cử chăm sóc mình và em bé. Thật không ngờ, dịch vụ chăm sóc bệnh viện cho sản phụ và em bé lại quá tiện ích và hài lòng đến vậy”.
Dịch vụ chăm sóc sau sinh tại BV Phụ sản Hải Phòng được bệnh nhân, gia đình bệnh nhân đ.ánh giá cao. Ảnh:TL
Dù gia đình không có người chăm sóc hay vợ chồng trẻ chưa có kinh nghiệm chăm bé thì khi vào viện, với dịch vụ này, ai cũng sẽ thấy yên tâm. Trong những ngày nằm phục hồi sau sinh, sản phụ được xông hơi giúp phục hồi sàn chậu, gội đầu thải sản dịch, còn em bé được chăm sóc riêng từ thay tã lót, cho bé uống sữa, tắm và massage hàng ngày vận động cơ thể…
Cùng sinh bé tại BV Phụ sản Hải Phòng tháng 1 vừa qua, chị Phạm T.V, 42 t.uổi (ở An Dương, Hải Phòng) bày tỏ hài lòng với dịch vụ chăm sóc trước và sau sinh của bệnh viện. Theo lời chị V, trong quá trình mang thai, chị có được dự lớp t.iền sản tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng. Tại các buổi học, chị và thai phụ được tập huấn, truyền kiến thức về kỹ năng về việc những dấu hiệu cho biết sẽ sinh thường hay sinh mổ, hướng dẫn cách chăm sóc trẻ sơ sinh, giá dịch vụ khi sinh để lựa chọn phù hợp…
Đ.ánh giá về quá trình đổi mới này của đơn vị, PGS.TS.BS Vũ Văn Tâm – Giám đốc bệnh viện chia sẻ, để tồn tại và phát triển, đáp ứng tình hình như cầu khám chữa bệnh hiện nay, bệnh viện đã tập trung nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị y tế hiện đại và phát triển kỹ thuật mới, đặc biệt chú trọng vào các lĩnh vực chuyên sâu, mũi nhọn của chuyên ngành sản – phụ khoa.
Trong những năm qua, bệnh viện đã nghiên cứu, ứng dụng thành công nhiều kỹ thuật mới, hiện đại, như nuôi phôi ngày 5, chọc hút noãn lần hai trong cùng một chu kỳ; hỗ trợ phôi thoát màng; lấy t.inh t.rùng từ vi phẫu t.inh h.oàn… xét nghiệm di truyền trước làm tổ; sinh thiết phôi; xét nghiệm di truyền nhiễm sắc thể – di truyền lệch bội trước làm tổ; chọc ối và sinh thiết gai nhau…
Ngoài những kỹ thuật trên đã được nghiên cứu và ứng dụng thành công, bệnh viện đang triển khai thêm nhiều kỹ thuật mới, đặc biệt là kỹ thuật điều trị rối loạn chức năng sàn chậu nữ. Đây là bệnh lý rất phổ biến, đặc biệt đối với phụ nữ đã qua sinh nở.
Thời gian tới, Bệnh viện sẽ tiếp tục duy trì phát triển kỹ thuật khoa học mới, chuyên sâu, đồng thời thực hiện quyết liệt nhiều giải pháp đồng bộ để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và trang thiết bị y tế hiện đại và đội ngũ cán bộ có tay nghề cao để có nguồn nhân lực phục vụ nhân dân tốt hơn trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, bác sĩ Tâm khẳng định.
Cảnh báo tình trạng chạy thận nhân tạo ngày càng trẻ hóa
Khoa Thận nhân tạo cơ sở An Đồng, Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp (Hải Phòng), đang điều trị cho 56 người bệnh suy thận giai đoạn cuối phải lọc m.áu chu kỳ, trong đó có 20 người 18-35 t.uổi…
Khoa Thận nhân tạo cơ sở An Đồng, Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp (Hải Phòng). Ảnh: BVCC
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), 10% dân số thế giới đang phải đối mặt với các bệnh lí về thận và mỗi năm, bệnh lý này cướp đi mạng sống của 5 – 10 triệu người.
Tại Việt Nam, hiện có khoảng 5 triệu người đang bị suy thận, khoảng 26.000 người bị suy thận mạn tính giai đoạn cuối phải chạy thận nhân tạo và 8.000 ca mắc mới mỗi năm. Đáng lo ngại hơn, trong những năm trở lại đây, tỉ lệ người bệnh trẻ t.uổi mắc bệnh và phải lọc m.áu chu kỳ tăng 5-10%, trở thành gánh nặng cho y tế, gia đình và xã hội.
Nếu như trước đây, bệnh chỉ xuất hiện ở nhóm người trên 60 t.uổi, thì hiện nay, tỉ lệ người trẻ trong độ t.uổi từ 18-30 t.uổi chiếm đến 25%.
Tình trạng người bệnh suy thận mạn đang ngày càng trẻ hóa, số người cần phải lọc m.áu tiếp tục có xu hướng tăng là thách thức không hề nhỏ đối với ngành y tế và là hồi chuông báo động tới tất cả mọi người. Đặc biệt, bệnh thận thường diễn tiến âm thầm, rất khó phát hiện và người bệnh đến bệnh viện điều trị đều đã ở giai đoạn nặng.
Theo BSCKII. Bùi Thị Thu Hằng, Trưởng Khoa Thận nhân tạo cơ sở An Đồng, Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp (Hải Phòng), hiện tại, Khoa điều trị cho 56 người bệnh suy thận giai đoạn cuối phải lọc m.áu chu kỳ, trong đó có 20 người bệnh từ 18-35 t.uổi.
“Một vài năm trở lại đây, số lượng người bệnh có xu hướng trẻ hóa. Nhiều người trẻ không có biểu hiện, chỉ phát hiện ra bệnh khi tình cờ đi khám sức khỏe định kỳ, khám nghĩa vụ quân sự hay khám t.iền hôn nhân. Đa số người bệnh trẻ t.uổi phát hiện bệnh đã ở giai đoạn cuối nhưng đều có tâm lý chủ quan hoặc nhiều người mang theo tâm trạng chán nản, không tuân thủ đúng theo phác đồ điều trị, điều này không chỉ gây khó khăn trong quá trình điều trị mà còn làm tăng nguy cơ xảy ra các biến chứng, suy giảm sức khỏe nặng nề và trở thành gánh nặng cho gia đình”, BSCKII. Bùi Thị Thu Hằng nói.
Cũng theo bác sĩ, bệnh suy thận thường không có các biểu hiện rõ ràng, dễ bị bỏ qua, nhất là những người trẻ có tâm lý chủ quan, lơ là, bỏ qua những biểu hiện bất thường của cơ thể.
Bên cạnh những nguyên nhân dẫn tới bệnh thận mạn giai đoạn cuối như di truyền, thận đa nang, nhiễm khuẩn, bệnh tự miễn… thì thói quen sinh hoạt không lành mạnh như: Tình trạng ăn uống thừa năng lượng, thức ăn chế biến sẵn nhiều hóa chất bảo quản; lạm dụng các loại đồ uống; lối sống ít vận động thể lực cũng là những nguyên nhân dẫn tới trẻ hóa suy thận mạn.
Suy thận mạn tính có thể xảy ra ở mọi lứa t.uổi và giới tính. Để hạn chế nguy cơ suy thận mạn tính, mỗi người cần duy trì chế độ ăn uống lành mạnh, tăng cường bổ sung các loại rau củ, uống nhiều nước, giảm lượng muối trong khẩu phần ăn, thường xuyên tập luyện thể thao để nâng cao sức khỏe, sử dụng các loại thuốc theo đúng chỉ định của bác sĩ…
Đối với những người bệnh mắc các bệnh lý nguy cơ như viêm cầu thận mạn, thận đa nang, viêm thận bể thận mạn do sỏi, lupus, đái tháo đường, tăng huyết áp… thì phải theo dõi và điều trị để phòng biến chứng dẫn đến suy thận.
Đặc biệt, cần đi khám sức khỏe định kỳ để phát hiện các dấu hiệu bất thường và điều trị kịp thời, tránh để các bệnh lý về thận diễn biến nặng dẫn tới suy thận mạn tính.